
SULFADROG
Thành phần
Sulfadimethoxine: 200 mg
Trimethoprim: 40 mg
Cơ chế tác động
Sulfonamide là nhóm thuốc kháng sinh tổng hợp có lịch sử lâu đời, được phát minh vào đầu thế kỷ XX và là một trong những nhóm kháng sinh đầu tiên được sử dụng rộng rãi trong điều trị bệnh nhiễm khuẩn cho cả người và động vật. Trong thú y, sulfonamide vẫn giữ vai trò quan trọng nhờ phổ tác dụng rộng, hiệu quả cao và chi phí thấp. Nhóm thuốc này có cấu trúc hóa học đặc trưng là p-aminobenzen sulfonamide, với nhiều dẫn xuất khác nhau được phát triển để cải thiện sinh khả dụng, kéo dài thời gian bán thải và tăng hiệu lực điều trị.

Về bản chất, sulfonamide là kháng sinh kìm khuẩn, không tiêu diệt vi khuẩn trực tiếp mà ngăn cản sự phát triển và nhân lên của chúng. Cơ chế tác dụng của sulfonamide là ức chế cạnh tranh enzym dihydropteroate synthase, một enzym cần thiết trong quá trình tổng hợp acid dihydrofolic – tiền chất của acid folic. Trong quá trình tổng hợp này, vi khuẩn sử dụng PABA (para-aminobenzoic acid) để tạo ra dihydrofolic acid. Sulfonamide có cấu trúc tương tự PABA nên có thể cạnh tranh vị trí gắn kết trên enzym, từ đó ngăn chặn quá trình tổng hợp acid folic. Vì acid folic rất cần thiết cho sự tổng hợp DNA, RNA và protein, việc thiếu hụt chất này sẽ làm gián đoạn quá trình phân chia tế bào, dẫn đến ngừng phát triển vi khuẩn. Một điểm quan trọng là các tế bào động vật không tổng hợp acid folic mà hấp thụ từ thức ăn, nên sulfonamide không ảnh hưởng đến tế bào vật chủ.
Để tăng cường hiệu lực điều trị, sulfonamide thường được phối hợp với trimethoprim – một thuốc kháng khuẩn khác có cơ chế tác động ở bước kế tiếp trong chuỗi tổng hợp acid folic, cụ thể là ức chế enzym dihydrofolate reductase. Sự phối hợp này tạo ra hiệu ứng cộng hưởng (synergistic effect), không chỉ nâng cao hiệu quả mà còn biến thuốc từ dạng kìm khuẩn thành diệt khuẩn, làm tăng khả năng loại bỏ tác nhân gây bệnh, đặc biệt trong những trường hợp nhiễm trùng nặng.
Dược lý học
Sulfonamide có phổ tác dụng rộng, hoạt động hiệu quả trên nhiều loại vi khuẩn Gram (+) (Streptococcus, Staphylococcus), Gram (-) (Escherichia coli, Salmonella, Pasteurella), cũng như trên một số loại ký sinh trùng đơn bào như Eimeria spp. (gây bệnh cầu trùng). Tuy nhiên, hiệu quả của thuốc có thể bị ảnh hưởng nếu môi trường điều trị có nồng độ cao PABA – thường gặp trong các mô hoại tử, mủ hoặc nhiễm trùng nặng – vì PABA cạnh tranh vị trí gắn kết với sulfonamide. Ngoài ra, một số vi khuẩn có thể phát triển cơ chế đề kháng thông qua thay đổi cấu trúc enzym đích, tăng sản xuất PABA hoặc giảm khả năng hấp thu thuốc.
Dược động học
Hấp thu
Sulfonamide có khả năng hấp thu nhanh và hiệu quả qua đường tiêu hóa, kể cả ở động vật nhai lại – điều hiếm thấy ở nhiều loại kháng sinh khác. Sau khi uống, thuốc đạt nồng độ tối đa trong huyết tương trong vòng 1–3 giờ. Các dạng sulfonamide có thể phân chia thành ba nhóm dựa trên thời gian bán thải: nhóm tác dụng ngắn (như sulfadiazine), trung bình (sulfamethoxazole), và kéo dài (sulfadimethoxine, sulfamethazine). Điều này giúp người sử dụng linh hoạt trong việc lựa chọn chế độ điều trị phù hợp với từng loài vật và loại bệnh.
Phân bố
Sau khi hấp thu, thuốc được phân bố rộng rãi trong cơ thể, vào được nhiều mô và dịch như dịch khớp, phổi, đường tiêu hóa, thậm chí cả dịch não tủy. Sulfonamide cũng có thể đi qua nhau thai và bài tiết qua sữa, do đó cần thận trọng khi dùng cho động vật đang mang thai hoặc cho con bú. Thuốc có khả năng gắn kết cao với protein huyết tương, điều này ảnh hưởng đến tốc độ đào thải và tác dụng điều trị.
Chuyển hóa
Chuyển hóa của sulfonamide chủ yếu diễn ra ở gan thông qua các phản ứng acetyl hóa, hydroxyl hóa và glucuronid hóa. Các chất chuyển hóa có thể có hoặc không còn hoạt tính kháng khuẩn, tuy nhiên một số chất trung gian có thể gây độc cho thận nếu tích tụ hoặc kết tinh trong ống thận, đặc biệt khi nước tiểu có pH acid hoặc động vật bị mất nước. Do đó, cần đảm bảo cung cấp đủ nước cho vật nuôi trong quá trình điều trị.
Thải trừ
Việc thải trừ sulfonamide diễn ra chủ yếu qua thận, cả bằng lọc cầu thận lẫn bài tiết qua ống thận, khiến nồng độ thuốc trong nước tiểu rất cao. Đây là lợi thế lớn trong điều trị các bệnh viêm đường tiết niệu. Tuy nhiên, cũng chính vì vậy, sulfonamide dễ gây sỏi thận hoặc tổn thương thận nếu dùng kéo dài, quá liều hoặc ở động vật có chức năng thận suy giảm.
Tương tác thuốc
Sulfonamide có thể tương tác với nhiều thuốc khác, ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị và làm tăng nguy cơ độc tính. Tương tác có lợi điển hình là với trimethoprim, giúp tăng hiệu lực kháng khuẩn và chuyển từ kìm khuẩn sang diệt khuẩn. Tuy nhiên, khi dùng chung với thuốc kháng acid hoặc thức ăn giàu khoáng, sulfonamide có thể bị giảm hấp thu. Sulfonamide còn cạnh tranh vị trí gắn protein huyết tương với các thuốc như thuốc chống đông, NSAIDs, dẫn đến tăng nồng độ tự do và nguy cơ chảy máu hoặc độc tính gan, thận. Ngoài ra, thuốc có thể gây dị ứng chéo với thuốc lợi tiểu nhóm thiazide, và tăng độc tính khi phối hợp với các thuốc ức chế enzym gan như chloramphenicol hoặc thuốc ức chế tủy xương. Cuối cùng, môi trường nước tiểu acid hóa làm tăng nguy cơ kết tinh sulfonamide gây sỏi thận, trong khi nước tiểu kiềm hóa giúp giảm biến chứng này. Do đó, cần thận trọng khi phối hợp sulfonamide với các thuốc khác để đảm bảo an toàn và hiệu quả điều trị.
Trimethoprim là một hợp chất tổng hợp, thuộc nhóm kháng sinh ức chế tổng hợp acid folic, thường dùng trong điều trị nhiễm khuẩn ở người và động vật. Trong thú y, Trimethoprim phổ biến dưới dạng phối hợp với các sulfonamide để tăng hiệu lực.

Trimethoprim là một kháng sinh tổng hợp thuộc nhóm ức chế tổng hợp acid folic, có cấu trúc hóa học là 5-(3,4,5-trimethoxybenzyl)pyrimidine-2,4-diamine với công thức phân tử C₁₄H₁₈N₄O₃ và khối lượng phân tử 290,32 g/mol. Dưỡng chất này tồn tại dưới dạng bột kết tinh màu trắng hoặc trắng ngà, không mùi và có vị đắng nhẹ. Trimethoprim ít tan trong nước nhưng hòa tan tốt trong các dung môi hữu cơ như methanol, ethanol và chloroform. Thuốc có tính ổn định tương đối cao dưới điều kiện nhiệt độ và ánh sáng thông thường, tuy nhiên dễ phân hủy khi tiếp xúc với môi trường acid hoặc kiềm mạnh
Dược lực học
Trimethoprim là một diaminopyrimidin kháng khuẩn. Trimethoprim có tác dụng kìm khuẩn hoặc diệt khuẩn tùy thuộc vào điều kiện phát triển của vi khuẩn, thí dụ, mủ có thể làm giảm hoạt tính của trimethoprim vì sự có mặt của thymin và thymidin.
Trimethoprim là chất ức chế enzym dihydrofolat-reductase. Ái lực của thuốc đối với enzym này của vi khuẩn mạnh hơn nhiều của người. Vì vậy, thuốc ức chế sự biến đổi acid dihydrofolic của vi khuẩn thành acid tetrahydrofolic, là chất cần thiết cho quá trình sinh tổng hợp của acid amino, purin, thymidin, DNA thiết yếu.
Phổ tác dụng: trimethoprim có tác dụng với nhiều loại vi khuẩn gram âm và gram dương hiếu khí và một số loài động vật nguyên sinh.
Gram (+): Các chủng gram (+) nhạy cảm gồm: cầu khuẩn Staphylococcus aureus, liên cầu khuẩn Streptococcus pyogenes, Str. pneumoniae và viridans streptococci. Đối với cầu khuẩn ruột, độ nhạy cảm của thuốc bị giảm khi có mặt của folat. Một số loài nhạy cảm khác như Listeria, Corynebacterium diphtheria và gram dương bacilli.
Gram (-): trong số các vi khuẩn gram (-), phần lớn vi khuẩn đường ruột nhạy cảm với thuốc. Một số chủng nhạy cảm vừa gồm: Citrobacter, Enterobacter, Escherichia coli, Hafnia, Klebsiella, Proteus mirabilis, Providencia, Salmonella, ít nhạy cảm với Serratia, Shigella và Yersinia. Một số chủng nhạy cảm khác gồm Legionella, Vibrio, Haemophilus influenzae và H. ducreyi.
Kháng thuốc: vi khuẩn kháng trimethoprim có thể do nhiều cơ chế. Trong lâm sàng, kháng thuốc thường do các dihydrofolat reductase kháng trimethoprim thông qua plasmid: các gen như vậy có thể sát nhập vào thể nhiễm sắc thông qua transposon. Kháng thuốc cũng có thể do sản xuất quá mức dihydrofolat reductase, thay đổi tính thấm của tế bào vi khuẩn, hoặc do các chủng đột biến bản chất kháng trimethoprim vì chúng phụ thuộc vào thymin và thymidin ngoại sinh để phát triển. Mặc dù lo ngại vi khuẩn kháng thuốc nhanh khi dùng trimethoprim đơn độc, nhưng chưa được chứng minh rõ ràng.
Các chủng vi khuẩn kỵ khí thường kháng thuốc ở các mức độ khác nhau như Brucella, Neisseria và Norcadia. Mycobacterium tuberculosis kháng thuốc nhưng M. marinum không kháng. Pseudomonas aeruginosae, Chlamydiaceae, Mycoplasma spp., Rickettsia spp. và xoắn khuẩn cũng kháng.
Trimethoprim cũng có một số tác dụng với Pneumocystis jirovecii và một số động vật nguyên sinh như Naegleria, Plasmodium và Toxoplasma.
Trimethoprim có thể dùng đơn độc để điều trị nhiễm khuẩn đường hô hấp, viêm tiền liệt tuyến, lỵ Shigella, nhiễm Salmonella đặc biệt là đối với phòng và điều trị nhiễm khuẩn đường niệu.
Trimethoprim có tác dụng hiệp đồng mạnh với các sufonamid vì cơ chế tác dụng có tính chất bổ sung lẫn nhau, tác động đến các giai đoạn khác nhau trong chuyển hóa folat, vì vậy thuốc có thể dùng phối hợp với các sulfonamide. Trong một vài trường hợp, dùng riêng tốt hơn phối hợp, thí dụ như đợt cấp của viêm phế quản mạn tính, trimethoprim khuyếch tán tốt vào trong màng nhày phế quản bị viêm, nhưng vẫn có tác dụng tốt, trong khi sulfamethoxazol chỉ ở trong máu, không tới được nơi nhiễm khuẩn.
Điều đó dẫn đến kết luận là, điều trị viêm phế quản mạn đợt cấp, chỉ cần dùng riêng trimethoprim. Một mặt vẫn có tác dụng, mặt khác làm giảm đáng kể tác dụng có hại của sulfamethoxazol.
Động lực học
Hấp thu
Trimethoprim được hấp thu nhanh và hầu như hoàn toàn qua đường tiêu hóa, nồng độ ở trạng thái ổn định đạt được trong vòng 2-3 ngày, nồng độ đỉnh trong máu đạt được sau 1 - 4 giờ là 1 microgam/ml sau khi uống liều 100 mg.
Phân bố
Thuốc gắn với protein huyết tương khoảng 45%. Trimethoprim phân bố trong nhiều mô và các dịch gồm thận, gan, phổi, dịch phế quản, nước bọt, thủy dịch ở mắt, tuyến tiền liệt và dịch âm đạo. Thuốc cũng phân bố vào dịch não tủy, đi qua hàng rào nhau thai.
Chuyển hóa
10–20% liều dùng được chuyển hóa ở gan thành các chất chuyển hóa oxit và hydroxyl hóa.
Thải trừ
Thời gian bán thải của thuốc là 8 - 10 giờ ở người lớn và ít hơn ở trẻ em, kéo dài hơn trong suy thận và ở trẻ sơ sinh. Trimethoprim đào thải chủ yếu qua thận thông qua lọc cầu thận và bài tiết ở ống thận, chủ yếu dưới dạng không đổi. Khoảng 40 - 60% liều được đào thải qua thận trong 24 giờ. Trimethoprim có thể bị loại khỏi máu qua lọc máu.
Tương tác thuốc
Tương tác với các thuốc khác
Sử dụng đồng thời trimethoprim và phenytoin làm tăng thời gian bán thải của phenytoin lên 50% và giảm 30% độ thanh thải của phenytoin, nhiễm độc phenytoin
Nguy cơ ngộ độc thận tăng khi sử dụng đồng thời trimethoprim và ciclosporin.
Các chất đối kháng folat như methotrexat, pyrimethamin khi sử dụng đồng thời với trimethoprim có thể làm tăng tỷ lệ bị thiếu máu nguyên hồng cầu khổng lồ.
Trimethoprim có thể làm tăng tác dụng của: chất ức chế ACE, amantadin, thuốc chẹn thụ thể angiotensin II, thuốc chống đái tháo đường, azathioprin, carvedilol, dapson, dofetilid, eplerenon, fosphenytoin, lamivudin, memantin, mercaptopurin, methotrexat, phenytoin, pralatrexat, procainamid, repaglinid, spironolacton, vareniclin.
Tác dụng của trimethoprim có thể tăng bởi: amantadin, conivaptan, dapson, memantin.
Công dụng
Phòng ngừa và điều trị các bệnh:
- Gia cầm: bệnh phù đầu Coryza, tụ huyết trùng, hô hấp mãn tính, E. coli, thương hàn, viêm phổi, viêm rốn, Streptococcus spp., cầu trùng.
- Heo: viêm phổi, nhiễm trùng huyết, tụ huyết trùng, cầu trùng, tiêu chảy.
- Bò, cừu, dê và lạc đà Nam Mỹ: cầu trùng, tụ huyết trùng, viêm phổi do vi khuẩn và tiêu chảy.
- Ngựa: bệnh Strangles (bệnh distemper), nhiễm trùng huyết, viêm phổi và tiêu chảy.
Liều lượng
Dùng qua đường uống, pha trong nước uống
- Gia cầm và heo: 0.5 mL/ Lít nước uống, trong 3 – 5 ngày
- Trong các ca bệnh nặng, 1 mL/ Lít nước hoặc 1 mL/ 10 – 20 kg thể trọng/ ngày, dùng trong 3-5 ngày
- Ngựa, bò, cừu, dê và lạc đà Nam Mỹ: 1 mL / 10 – 16 kg thể trọng, dùng trong 3 - 5 ngày.
Xuất xứ
NSX:LABORATORIOS DROGAVET S A C, Peru
Thông tin liên hệ
Hỗ trợ kỹ thuật gà: |
0908 012 238 |
Hỗ trợ kỹ thuật heo: |
0934 555 238 |
Hỗ trợ kỹ thuật : |
0982 984 585 |
Chăm sóc khách hàng: |
0934 469 238 |